^Back To Top
Việc xây dựng các chính sách đô thị thông minh có ý nghĩa hết sức to lớn, nó thể hiện tầm nhìn mang tính chiến lược. Việc áp dụng Cách mạng công nghiệp 4.0 vào sẽ làm cho cuộc sống của con người tiện ích, thân thiện với môi trường hơn. Phát triển đô thị luôn là quá trình xuyên suốt và lâu dài. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và trình độ khoa học kỹ thuật của từng giai đoạn mà đô thị có những hình thái phát triển khác nhau. Trong bài viết này, tác giả giới thiệu những thách thức, cơ hội và giải pháp phát triển đô thị thông minh ở Việt Nam trong xu thế hội nhập hướng tới nền kinh tế tri thức.
Khái niệm “Đô thị thông minh” ở Việt Nam vẫn còn khá mới mẻ. Có người định nghĩa rằng, đó là một đô thị hiện đại với đầy đủ các tính năng và tiện nghi phục vụ cho nhu cầu của con người và công việc.
Đến nay, thế giới vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về đô thị thông minh nhưng về cơ bản đều đề cập tới việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, kết nối các cảm biến, mạng không dây tốc độ cao, xử lý dữ liệu lớn để nâng cao chất lượng cuộc sống trong đô thị, cải thiện chất lượng phục vụ của chính quyền thành phố, cải thiện mức độ hài lòng của dân cư, giảm tiêu thụ năng lượng, quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Qua tìm hiểu sự phát triển đô thị thông minh trên thế giới có thể thấy rõ việc phát triển đô thị thông minh rất khác nhau tùy thuộc trình độ phát triển, năng lực khoa học kỹ thuật và tiềm lực kinh tế của từng quốc gia. Các nước phát triển ở khu vực Châu Âu và Bắc Mỹ thường gắn sự thông minh vào các hệ thống cơ sở hạ tầng sẵn có, tập trung vào các khía cạnh mềm như quản trị thông minh, con người thông minh và tạo ra môi trường sống thông minh.
Tuy nhiên, ngoài vấn đề giao thông, điện, nước…., thì hệ thống phát triển hạ tầng mạng truyền dẫn, kết nối thông tin theo xu hướng “kết nối thông minh”, để giúp cho việc quản lý đô thị hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của người dân, đồng thời giúp cho đô thị có thể phát triển bền vững, tiết kiệm năng lượng… mới là yếu tố then chốt và nền tảng để làm nên một “Đô thị thông minh”. Nền tảng của một thành phố tương lai sẽ là mạng lưới và những thông tin được mạng truyền tải, cho phép tất cả các dịch vụ quan trọng, từ giao thông vận tải, an ninh, tới giải trí, đào tạo, y tế… được kết nối với nhau, trở nên thông minh và thân thiện với môi trường.
Cụ thể hơn, cơ sở hạ tầng đô thị bao gồm nhà cửa, văn phòng, xe hơi, các phương tiện giao thông công cộng, bệnh viện, trường học, năng lượng và các trang thiết bị đều được kết nối thông qua cơ sở hạ tầng mạng vô tuyến và hữu tuyến vào mạng Internet. Và Internet phát triển thành một “mạng lưới kết nối mọi thứ” (Internet of things), chứ không còn chỉ bó hẹp ở máy tính và các thiết bị di động truyền thống nữa.
Các thành phố sử dụng mạng như là nền tảng để lập kế hoạch, xây dựng và quản lý các hoạt động thường nhật, sẽ nâng cao đáng kể hiệu suất trong mọi khía cạnh của cuộc sống cộng đồng, nhất là nâng cao năng suất làm việc của nhân viên, cải tiến năng lực và khả năng truy cập vào các dịch vụ công.
Trên thực tế, sự phát triển của đô thị ở Việt Nam đa số mới dừng lại ở việc cung cấp cho người dân những dịch vụ và điều kiện thông thường như điện, nước, giao thông và công nghệ thông tin (mạng Internet, cáp, truyền hình) ở mức đơn giản.
Phần nhiều chủ đầu tư các tòa nhà, khu đô thị hiện cũng chưa xây dựng được bộ phận quản trị chuyên trách về công nghệ thông tin (có thể do thiếu nguồn đầu tư hoặc không quan tâm) để vận hành hệ thống quản lý thông tin, truyền dẫn trong tòa nhà.
Theo nhiều chuyên gia cả trong nước và quốc tế, thách thức lớn nhất đối với việc xây dựng, quy hoạch lên những “đô thị thông minh” là vấn đề về nhận thức, vì nếu không nhìn trước được xu hướng phát triển của “đô thị thông minh” và sự phát triển của công nghệ sẽ ra sao, để đáp ứng nhu cầu thực tế trong 5 – 10 năm tới thì chất chất lượng sống của người dân khó được cải thiện. Và các đô thị của Việt Nam khó có thể theo kịp được sự phát triển hiện đại, thông minh của các đô thị trên thế giới.
Để thực sự tạo ra “đô thị thông minh” tại Việt Nam thì bài toán đặt ra chính là sự kết nối các giải pháp của các tòa nhà, khu đô thị với nhau. Bởi nếu chỉ phát triển rời rạc, lẻ tẻ từng giải pháp thì sự “thông minh” chỉ giới hạn trong những ứng dụng công nghệ của các nhà cung cấp khác nhau, và như thế sẽ khó có thể mà tạo được những “đô thị thông minh”.
Những thách thức kể trên không thể ngăn được xu thế chung của thế giới cũng như khả năng tiếp cận của Việt Nam trong xu thế hội nhập hướng tới nền kinh tế tri thức. Điều này có thể thấy rõ qua sự phát triển vượt bậc của hạ tầng viễn thông và dịch vụ viễn thông Việt Nam những năm gần đây khi có thứ hạng cao trên bản đồ công nghệ thông tin thế giới trong ngành dịch vụ công nghệ thông tin, dịch vụ gia công phần mềm, dịch vụ gia công quy trình; đứng đầu về chỉ số kinh tế ứng dụng di động trong 6 nước phát triển khu vực ASEAN. Chỉ số Chính phủ điện tử của Việt Nam được Liên hợp quốc xếp hạng thuộc nhóm các nước có chỉ số phát triển cao đứng thứ 89/193 quốc gia; chỉ số sẵn sàng kết nối của Việt Nam năm 2016 đạt 79/139 nước; khả năng tiếp cận các dịch vụ công nghệ thông tin, Việt Nam được đánh giá rất cao, đứng thứ 3/139 nước trong khi đó giá cước dịch vụ Internet băng rộng cố định tại Việt Nam đang ở mức thấp nhất thế giới với vị trí xếp hạng 1/139 nước. Đây là tiền đề quan trọng cho việc phát triển của các dịch vụ internet vạn vật tại Việt Nam. Việt Nam với nền tảng dân số trẻ, tầng lớp trung lưu ngày càng gia tăng, nguồn lao động lành nghề với chi phí cạnh tranh là lợi thế rất lớn để Việt Nam trở thành một trung tâm chế tạo mới của thế giới. Nền chính trị ổn định với những định hướng chính sách thu hút đầu tư rõ ràng và có điều kiện phát triển đa dạng, do đó có nhiều cơ hội để đẩy nhanh tiến trình phát triển trong kỷ nguyên của công nghệ số. Tốc độ đô thị hóa tăng nhanh, khu vực đô thị luôn gắn liền với vị trí địa lí thuận lợi về tài nguyên trong phát triển du lịch, với lịch sử phát triển lâu đời nhiều đô thị có giá trị văn hóa nổi bật làm tiền đề cho sự cạnh tranh phát triển kinh tế xã hội từng đô thị từng vùng và quốc gia.
Trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý nhà nước và công tác quy hoạch, quản lý đô thị và nông thôn, Việt Nam cũng đã đạt được nhiều thành tựu. Có thể kể ra những công cụ đang dần được hoàn thiện như hệ thống thông tin địa lí; công cụ đánh giá thị trường đất đai; hệ thống thông tin đất đai; hệ thống thông tin quản lý và các ứng dụng khác.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã bắt đầu nghiên cứu và phát triển một số dịch vụ tiện ích hướng đến phát triển đô thị thông minh. Các doanh nghiệp này cũng nhìn nhận việc phát triển đô thị thông minh là một thị trường mới, nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Không chỉ có các doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp nước ngoài cũng đang tích cực tham gia phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam. Qua những chuyển động của doanh nghiệp có thể nhận thấy rằng phát triển đô thị thông minh có tiềm năng thương mại lớn, do đó có nhiều khả năng thu hút được nguồn vốn xã hội để đầu tư. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm mô hình đầu tư hiệu quả sao cho cân đối hài hòa lợi ích gữa ba chủ thể chính sách trong phát triển đô thị thông minh là doanh nghiệp - người dân - chính quyền.
Đối với Việt Nam, xây dựng đô thị thông minh là một khái niệm mới, vì vậy các nhà làm hoạch định chính sách cần phải có những kế hoạch, chiến lược phù hợp trong từng giai đoạn cụ thể để chính sách đi vào thực tế đời sống theo đúng những mục tiêu đặt ra. Nhằm hoàn thiện chính sách xây dựng và phát triển đô thị thông minh, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tuyên truyền nâng cao nhận thức. Trước tiên là chú trọng nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong toàn xã hội về sự cần thiết và lợi ích của việc xây dựng đô thị thông minh trong giai đoạn hiện nay. Tiếp theo, cần nâng cao hiểu biết, nhận thức, trách nhiệm và năng lực xây dựng đô thị thông minh cho các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức. Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm tuyên truyền về đô thị thông minh để tạo sự đồng thuận, hưởng ứng mạnh mẽ trong toàn xã hội.
Thứ hai, phối hợp với các bộ, ngành, tổ chức xây dựng, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết các nội dung của “xây dựng đô thị thông minh”. Về lâu dài, cần rà soát hệ thống pháp luật và văn bản dưới luật cũng như các chính sách liên quan đến “xây dựng đô thị thông minh” để có lộ trình bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với mô hình phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước.
Thứ ba, huy động mọi nguồn lực, ưu tiên đầu tư kinh phí cho việc xây dựng đô thị thông minh từ nguồn vốn đầu tư khoa học công nghệ và các nguồn vốn khác. Xây dựng cơ chế khuyến khích đối với các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp Công nghệ thông tin trong và ngoài nước. Có chế độ khuyến khích các địa phương triển khai xây dựng, thành lập phát triển Công nghệ thông tin – truyền thông.
Thứ tư, hướng dẫn các địa phương triển khai những nội dung mới của chính sách, rà soát kiện toàn, bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ về Công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm ở vị trí Công nghệ thông tin. Chú trọng xây dựng và quản lý quy hoạch nguồn nhân lực Công nghệ thông tin, đảm bảo đáp ứng yêu cầu khi triển khai thực hiện.
Thứ năm, tăng cường kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chính sách, chương trình về triển khai xây dựng đô thị thông minh ở các địa phương để kịp thời phát hiện sai sót và điều chỉnh những nội dung, hoạt động không phù hợp. Bảo đảm chế độ thông tin báo cáo và vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu về xây dựng và phát triển đô thị thông minh. Cập nhật thông tin, phân tích, dự báo tình hình tốc độ đô thị hóa và các vấn để khác liên quan đến đô thị thông minh
Đô thị thông minh là một hướng phát triển còn khá mới mẻ ở Việt Nam, hiện tại có một số địa phương đã xây dựng kế hoạch phát triển đô thị thông minh nhưng chủ yếu là mang tính chất tự phát theo xu hướng chung của thời đại. Việc xây dựng đô thị thông minh ở Việt Nam cần phù hợp với Quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị Việt Nam và Chương trình phát triển đô thị quốc gia, giải quyết được những tồn tại, khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển đô thị hướng đến các mục tiêu tăng trưởng xanh và bền vững. Do vậy, cần thiết phải nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý, các quy phạm pháp luật, quy chuẩn tiêu chuẩn cũng như những cơ chế khuyến khích đầu tư cho việc phát triển đô thị thông minh. Bên cạnh đó là việc xây dựng cơ sở dữ liệu không gian quy hoạch - phát triển đô thị liên ngành phục vụ công tác quản lý và hỗ trợ người dân - doanh nghiệp. Ngoài ra, để việc phát triển đô thị thông minh đạt được hiệu quả cao, có lẽ cũng cần nghiên cứu xây dựng thí điểm tại một vài địa điểm cụ thể nhằm phát hiện ra những vướng mắc trong có chế để bổ sung, sửa đổi; thu hút đầu tư; khuyến khích phát triển sản xuất phần cứng, phần mềm cũng như đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ công tác phát triển đô thị thông minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ban Chấp hành Trung ương (Khóa XII), Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế;
[2]. Chính phủ (2015), Nghị quyết số 36ª/NQ-CP ngày 14/10/2015 về Chính phủ điện tử;
[3]. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 950/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 - 2025, định hướng đến 2030;
[4]. Các thông tin trên InterNet.